Luận Văn: Biện Pháp Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Đạo Đức Cho Học Sinh Thpt

Published on

Tải Luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục đề tài: Biện pháp quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông trên địa bàn quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh hiện nay, dành cho những bạn có nhu cầu viết luận văn tham khảo.

  1. 1. BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ  PHAN NGUYỄN BÁCH KHOA BIỆN PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC HO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN BÌNH TÂN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC HÀ NỘI - 2013
  2. 2. BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ  PHAN NGUYỄN BÁCH KHOA BIỆN PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC HO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN BÌNH TÂN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY CHUYÊN NGÀNH : QUẢN LÝ GIÁO DỤC MÃ SỐ : 60 14 01 14 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. TRỊNH QUANG TỪ HÀ NỘI - 2013
  3. 3. MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 3 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN BÌNH TÂN 17 1.1 Khái niệm cơ bản về quản lý hoạt động giáo dục đạo đức 17 1.2 Nội dung quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông trên địa bàn quận Bình Tân 25 Chương 2 THỰC TRẠNG QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN BÌNH TÂN 31 2.1 Đặc đi 875;m tình hình kinh tế xã hội và giáo dục tại địa bàn quận Bình Tân 31 2.2 Thực trạng hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông trên địa bàn quận Bình Tân 34 2.3 Thực trạng quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông 37 Chương 3 BIỆN PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG QUẬN BÌNH TÂN 45 3.1 Yêu cầu đối với biện pháp quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh 45 3.2 Một số biện pháp cơ bản quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông trên địa bàn quận Bình Tân hiện nay 47 3.3 Khảo nghiệm tính cần thiết và tính khả thi của các biện pháp 67 KẾT LUẬN 73 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 75 PHỤ LỤC 77
  4. 4. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Đạo đức là một trong những phạm trù cơ bản của lý luận giáo dục, là nội dung quan trọng trong rèn luyện phát triển nhân cách của mỗi người Việt Nam. Đạo đức của người Việt Nam rất giản dị, tự nhiên, trong sáng, đã trở thành một nhân tố không thể thiếu được trong đời sống tinh thần, là một tiêu chuẩn quan trọng trong đánh giá, xem xét về phẩm chất nhân cách của mỗi người. Công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đang đặt ra những yêu cầu to lớn về chất lượng nguồn lực con người. Đó là sự phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và nhân cách nói chung của con người Việt Nam, mà trước hết là của thế hệ trẻ. Coi giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu, Đảng ta đòi hỏi phải "tăng cường giáo dục công dân, giáo dục lòng yêu nước, chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, giáo dục đạo đức và nhân văn, lịch sử dân tộc và bản sắc văn hóa dân tộc, ý chí vươn lên vì tương lai của bản thân và tiền đồ của đất nước". Từ đó cho thấy, giáo dục đạo đức là một trong những điểm chủ yếu, cốt lõi xuyên suốt và giữ vị trí chủ đạo trong toàn bộ quá trình giáo dục nhân cách, đào tạo con người trong nhà trường ở nước ta, đặc biệt là đối với học sinh ở lứa tuổi thiếu niên trong nhà trường phổ thông. Sự nghiệp đổi mới ở nước ta đang đi vào c hiều sâu và được triển khai trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Cơ chế thị trường, nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần đang phát huy tác dụng tích cực, tạo nên sự phát triển năng động và thúc đẩy nhịp độ tăng trưởng kinh tế ở nước ta. Nhưng, kinh tế thị trường cũng bộc lộ những mặt trái, gây ảnh hưởng tiêu cực tới đời sống tinh thần, sự cảm thụ văn hóa - nghệ thuật cũng như trong tâm lý - đạo đức của các tầng lớp dân cư trong xã h ội. Những ảnh hưởng tiêu cực đó len lỏi, thẩm thấu vào mọi quan hệ xã hội, làm sai lệch các chuẩn mực giá trị, dẫn tới sự suy 3
  5. 6. Ngay từ thời cổ đại Khổng Tử đã nhận thức được vai trò quan trọng của đạo đức đối với sự phát triển của xã hội và của từng con người cụ thể. Ông chủ trương dùng đức trị để xây dựng và ổn định xã hội. Đó là một xã hội có các chuẩn mực đạo đức rõ ràng, vua có đức của vua, tôi có đức của tôi, cha ra cha, con ra con, chồng ra chồng, vợ ra vợ, mọi người đều sống và làm việc đúng theo chính danh của mình. Cốt lõi trong quan đi& #7875;m của Khổng Tử về đạo đức là "nhân", "nghĩa". Nhân nghĩa là cái tốt đẹp của con người thể hiện ở nguyên tắc xây dựng, cai trị quốc gia, ở việc trau dồi ý chí, tình cảm, hành vi trong các mối quan hệ xã hội. Quan điểm của Khổng Tử về đạo đức và giáo dục đạo đức lúc bấy giờ là một tiến bộ xã hội. Nó không chỉ góp phần bổ sung, phát triển lý luận giáo dục nhân cách mà còn là một giải pháp cho sự phát triển của xã hội Trung Hoa cổ đại. Những quan điểm của Khổng Tử về giáo dục đạo đức đã trở thành quan điểm chính thống của nền giáo dục nho học trong suốt cả thời kỳ phong kiến ở Trung Quốc và Việt Nam. Tuy nhiên, do hạn chế của hoàn cảnh lịch sử nên quan điểm của Khổng Tử về đạo đức vẫn mang tính đẳng cấp, phân biệt đạo đức của quân tử và tiểu nhân, giữa nam và nữ. Về phương pháp giáo dục đạo đức, Khổng Tử chưa nhìn thấy mối quan hệ biện chứng giữa con người với xã hội, chưa kết hợp cải tạo con người với cải tạo xã hội. Ông coi đạo đức là sản phẩm của một cá nhân riêng biệt, được hình thành chủ yếu bằng con đường tu thân. Ở phương Tây, thời kỳ cổ đại cũng xuất hiện nhiều quan điểm, nhiều học thuyết lớn về giáo dục đạo đức. Mặc dù các quan điểm và các học thuyết đó chưa ảnh hưởng trực tiếp đến nền giáo dục nho học ở nước ta trong thời kỳ phong kiến nhưng nó là cơ sở cho sự hình thành các quan đi&# 7875;m giáo dục thời kỳ văn hóa phục hưng tỏa sáng khắp thế giới sau này. 5
  6. 7. Thời kỳ văn hóa phục hưng, giáo dục được xem như một lĩnh vực tiên phong trong cuộc đấu tranh chống lại ý thức hệ phong kiến, chống lại sự câu kết, lũng đoạn của vương quyền và thần quyền trong trường học. Trong bối cảnh đó, nhiều học thuyết, nhiều tư tưởng giáo dục tiến bộ đã được xuất hiện. Nhìn chung, các tư tưởng giáo dục thời kỳ này vẫn đề cao việc giáo dục đạo đức, nhưng đã có sự phát triển mới về chuẩn mực giá trị đạo  73;ức của con người và xã hội. Về phương pháp giáo dục, bước đầu đã có sự gắn kết đức dục với trí dục, gắn giáo dục đạo đức với lao động sản xuất và các hoạt động khác. Tuy nhiên, các tư tưởng tiến bộ đó phần lớn chỉ mới dừng lại ở ý tưởng, việc tổ chức thực hiện hầu như chưa đem lại kết quả mong muốn. Chỉ từ khi chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời, thì những vấn đề lý luận về giáo dục nói chung và giáo dục đạo đức n ói riêng mới được nghiên cứu một cách đầy đủ trên cơ sở khoa học thực sự. Trên cơ sở thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cách mạng, C. Mác và Ph. Ăngghen đã khắc phục những hạn chế của một số quan điểm về đạo đức và giáo dục đạo đức trước đây, kế thừa có chọn lọc những giá trị đạo đức tiến bộ của các chế độ xã hội trước. Hai ông đã đưa ra những quan điểm của mình về đạo đức. Đạo đức không thể tách rời cu& #7897;c sống của con người. Đạo đức trước hết phải là sự phản ánh giá trị cao đẹp của đời sống con người trong mối tương quan giữa người và người, giữa cá nhân và xã hội. Con người bằng hành động thực tế, quan hệ xã hội và kinh nghiệm lịch sử của mình để xây dựng nên những tiêu chuẩn, những giá trị đạo đức. C. Mác và Ph. Ăngghen chỉ rõ bản chất của đạo đức không phải là cái gì có sẵn hoặc thiên định. Đạo đức được hình t hành từ con người và xã hội loài người. Ph. Ăngghen viết: "Chúng ta khẳng định rằng, chung quy lại thì mọi thuyết đạo đức đã có từ trước đến nay đều là sản phẩm của tình hình kinh tế của xã hội lúc bấy giờ" [01, tr. 157]. 6
  7. 8. Như vậy, đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, được hình thành trên cơ sở tồn tại xã hội, tác động tới xã hội thông qua hoạt động thực tiễn của con người trong các thời kỳ lịch sử khác nhau. Trong mỗi chế độ xã hội, những giá trị đạo đức; những quy tắc, nguyên tắc và chuẩn mực đạo đức đều được định ra trên cơ sở điều kiện kinh tế, chính trị của chính xã hội ấy. Những tư tưởng về đạo đức của C. Mác và Ph. &# 258;ngghen đã được V.I.Lênin kế thừa, bổ sung, phát triển hoàn chỉnh thành học thuyết mácxít về đạo đức cộng sản và hiện thực hóa trong cách mạng tháng Mười Nga. V.I.Lênin khẳng định giáo dục cộng sản chính là giáo dục đạo đức cộng sản chủ nghĩa mà trước hết là giáo dục tính kỷ luật trong lao động và trong tập thể; giáo dục lòng yêu Tổ quốc xã hội chủ nghĩa và tinh thần quốc tế vô sản là vấn đề có ý nghĩa to lớn trong việc hình thành nhân cách con ng+ 2;ời xã hội chủ nghĩa. Con đường phấn đấu trở thành người có đạo đức cộng sản đó là mỗi người phải tích cực tự giác tham gia vào cuộc đấu tranh để giải phóng nhân loại cần lao và tham gia lao động xây dựng chủ nghĩa xã hội cùng công nhân và nông dân. Đạo đức cộng sản là "cuộc đấu tranh để củng cố và hoàn thiện chủ nghĩa cộng sản". "Đạo đức cộng sản là đạo đức phục vụ cuộc đấu tranh ấy, là đạo đức nhằm đoàn kế t những người lao động chống lại mọi sự bóc lột, mọi chế độ tư hữu..." [17, tr. 369]. Đạo đức cộng sản còn là khả năng tổ chức, tính tổ chức, ý thức làm chủ, lòng dũng cảm, không sợ gian khổ hy sinh, trung thực, bình tĩnh, tự tin và kiên quyết, dám làm, dám chịu trách nhiệm trước hành động của mình. Đặc biệt, đạo đức cộng sản là phải có khả năng tự đánh giá, rút ra mạnh, yếu, tìm rõ nguyên nhân để không ngừng rèn luyện, tự hoàn thiện về mọi mặt để trở thành con người phát triển toàn diện. 7
  8. 9. V.I.Lênin cũng chỉ rõ trách nhiệm của việc giáo dục đạo đức cộng sản là của toàn xã hội và của tất cả mọi người; trước hết đó là trách nhiệm của nhà trường Xô Viết, của Đoàn thanh niên tiền phong, của các tổ chức đảng, đoàn, cán bộ đảng, đoàn và các thế hệ cách mạng lớn tuổi, các lão thành cách mạng, của đội ngũ thầy, cô giáo. Muốn giáo dục đạo đức cộng sản cho thế hệ trẻ có kết quả tốt thì bản thân những người l 24;m công tác giáo dục phải là người gương mẫu, trong sáng, phải là người tiêu biểu để thế hệ trẻ noi theo, nhìn vào và học tập; làm được như vậy, đạo đức cộng sản mới thực sự trở thành đời sống tinh thần, mang tính giáo dục cao cho mỗi cá nhân và toàn xã hội. Các nghiên cứu ở trong nước Dân tộc Việt Nam đã trải qua hàng nghìn năm Lịch sử oai hùng. Trong quá trình đó đã hình thành và phát triển giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam trên nền tảng c ủa truyền thống quá trình đấu tranh dựng nước và bảo vệ, phát triển đất nước. Theo Nguyễn Thế Kiệt, vai trò của các hệ tư tưởng Phật giáo, Đạo giáo, đặc biệt là Nho giáo đã ảnh hưởng đến đời sống văn hóa tinh thần Việt Nam. Mỗi học thuyết tôn giáo đã giải thích được một khía cạnh của cuộc sống. Do đó, tư tưởng triết học đạo đức Việt Nam, giá trị đạo đức ưu trội, cốt lõi trong các giá trị truyền thống dân tộc trở thành phẩm chất nhân cách đặc trưng con người Việt Nam. Cuối thế kỷ XIX thực dân Pháp xâm chiếm nước ta, nền giáo dục phong kiến bị thay đổi toàn bộ. Hệ thống giáo dục nhà trường chú trọng đến nội dung giảng dạy kiến thức khoa học thực nghiệm, thực dụng nhằm đào tạo lớp người phục vụ cho lợi ích thực dân Pháp cho việc chinh phục thuộc địa. Sau cách mạng tháng tám (1945) và trong suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp, nền giáo dục Việt nam với mục đích giáo dục con người phục vụ "Kh áng chiến, kiến quốc" đã luôn gắn chặt hai mặt đức và tài trong mục tiêu giáo dục thế hệ trẻ, trong đó lấy Đức làm gốc. 8
  9. 10. Chủ tịch Hồ Chí Minh, người anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa lớn của nhân loại đã để lại cho chúng ta một di sản văn hóa vô cùng quý báu trên nhiều mặt, nhiều lĩnh vực. Đặc biệt là vấn đề đạo đức và giáo dục đạo đức cách mạng. Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, lãnh tụ Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Thống kê trong di sản Hồ Chí Minh để lại c ó tới gần 50 bài và tác phẩm bàn về vấn đề đạo đức. Có thể nói, đạo đức là một trong những vấn đề quan tâm hàng đầu của Hồ Chí Minh trong sự nghiệp cách mạng. Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức là nền tảng và là sức mạnh của người cách mạng. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng thì mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang vì sự nghiệp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Người viết: "Cũng như sô ng thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù có tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân" [19, tr. 283]. Người quan niệm đạo đức tạo ra sức mạnh, nhân tố quyết định sự thắng lợi của mọi công việc: "Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hay kém" [19, tr. 452]; Quan niệm lấy đức làm gốc của Hồ Chí Minh không có ; nghĩa là tuyệt đối hóa mặt đức, coi nhẹ mặt tài. Người cho rằng có tài mà không có đức là người vô dụng. Đức và tài phải thống nhất với nhau để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng. Theo Hồ Chí Minh, những phẩm chất đạo đức cơ bản của con người Việt Nam trong thời đại mới bao gồm: Một là, trung với nước, hiếu với dân. Đây là phẩm chất quan trọng nhất, bao trùm nhất và chi phối các phẩm chất khác. Từ khái niệm cũ "trung với vua, hiếu với cha mẹ" trong đạo đ 913;c truyền thống của xã hội phong kiến phương Đông, Hồ Chí Minh đưa vào đó một nội dung mới, phản ánh đạo đức 9
  10. 11. ngày nay cao rộng hơn là "Trung với nước, hiếu với dân". Đó là một cuộc cách mạng trong quan niệm đạo đức. Hai là, yêu thương con người. Đây là một trong những phẩm chất đẹp nhất của con người Việt Nam. Tình thương yêu con người được hình thành trong lịch sử và đã trở thành truyền thống của dân tộc. Tình yêu thương con người của Hồ Chí Minh là tình yêu thương của người cộng sản. Không phải thuần túy là sự đồng cảm tâm lý, không phải sự thươ ;ng hại, sự xót xa của tình thương tôn giáo. Tình yêu thương ở đây là phải giải phóng con người, tạo cơ hội cho con người được phát triển hoàn toàn. Ba là, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Đây là phẩm chất chung của con người, là phẩm chất đạo đức mới, thể hiện mối quan hệ rộng lớn vượt qua khuôn khổ quốc gia, dân tộc. Bồi dưỡng đạo đức cho con người Việt Nam là phải bồi dưỡng tinh thần quốc tế trong sáng ở mỗi người. Theo Hồ Chí Minh: đạo  3;ức cách mạng không phải điều gì xa lạ mà thực chất đạo đức cách mạng được hình thành từ thực tiễn hoạt động rèn luyện hàng ngày trong công tác, chiến đấu của mỗi người. Thực chất của giáo dục đạo đức chính là hình thành ở con người đức tính tốt, lòng nhân ái, nổi trội ở đó là tinh thần yêu nước, lòng trung thành đối với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân. Mục tiêu của giáo dục đạo đức là nhằm loại bỏ những thói hư, t̑ 3;t xấu, tư tưởng lạc hậu, trì trệ, sự ích kỷ cá nhân, tính vô nhân đạo. Vì theo Hồ Chí Minh: "Mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lòng. Ta phải biết làm cho lòng tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi. Đó là thái độ của người cách mạng" [15, tr. 558]. Từ việc xác định rõ thực chất của vấn đề giáo dục đạo đức, xác định rõ mục tiêu của giáo dục đạo đức, Hồ Chí Minh đã nêu lên những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới: 10
  11. 12. Nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức. Đây là nguyên tắc rèn để rèn luyện, là cơ sở để phân biệt đạo đức cách mạng với đạo đức không cách mạng. Xây đi đôi với chống, phải tạo thành phong trào quần chúng rộng rãi. Đây là nguyên tắc có tính quy luật trong giáo dục đạo đức mới. Muốn xây dựng đạo đức mới thì nhất thiết phải chống lại các tệ nạn, tiêu cực, thoái hóa biến chất, chống là nhằm mục đích để xây và lấy xây làm chính. Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời. Đạo đức không phải là từ trên trời rơi xuống mà được đào tạo, rèn luyện bền bỉ hàng ngày để phát triển và củng cố: "ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong". Đạo đức không thường xuyên tu dưỡng sẽ bị hoen ố. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức và giáo dục đạo đức là một cơ sở lý luận xuyên suốt, luôn hướng dẫn, chỉ đường cho Đảng, quân đội , nhân dân ta học tập, rèn luyện, phấn đấu trong sự nghiệp xây dựng đất nước thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đến năm 1979 Bộ chính trị và Trung ương Đảng Cộng Sản Việt Nam đã ra nghị quyết vế cải cách giáo dục và Ủy ban cải cách giáo dục Trung ương đã ra quyết định số 01 về cuộc vận động tăng cường giáo dục đạo đức cách mạng trong trường học, đã ghi rõ: "Nội dung đạo đức cần được giáo dục cho học sinh từ mẫu giáo đến đ ;ại học, nội dung chủ yếu dựa vào 5 điều bác Hồ dạy". Tiếp sau đó đã có nhiều tác giả nghiên cứu về vấn đề giáo dục đạo đức như: * Thứ trưởng Vũ Đình Nho "Một số vấn đề lý luận và tư tưởng về giáo dục đạo đức cách mạng trong trường học" (Báo Nghiên cứu giáo dục số 6/ 1980). * Tác giả Trần Quang "Dạy đạo đức trong trường học" (Báo giáo dục thời đại số 18/1999). 11
  12. 13. * Tác giả Lê Châu "Cần xác định đúng môn Giáo Dục Công Dân trong trường trung học phổ thông" (Báo Giáo dục thời đại ngày 25/5/2001). * Giáo sư Đặng Vũ Hoạt "Đổi mới công tác giáo viên chủ nhiệm với việc giáo dục đạo đức cho học sinh" Tạp chí Nghiên cứu giáo dục số 8/1992. * PGS- TS Hà Nhật Thăng "Thực trạng đạo đức, tư tưởng chính trị, lối sống của thanh niên- học sinh- sinh viên" (Tạp chí Nghiên cứu giáo dục số 39/2002). Về công tác quản lý giáo dục đạo đứ c trong những năm qua cũng có nhiều tác giả nghiên cứu như: * PGS-TS Đặng Quốc Bảo có bài "Những vấn đề cơ bản về quản lý giáo dục" 1998. * Tác giả Nguyễn Thị Mỹ Lộc "Quản lý nhà nước về giáo dục đào tạo" 1998. Nghị quyết của hội nghị lần II của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII (1996) có nêu: "Mục tiêu chủ yếu là giáo dục toàn diện đức, trí, thể, mỹ ở tất cả các bậc học, hết sức coi trọng giáo dục chính trị tư tưởng, nhân cách, khả năng tư duy sáng tN 41;o và năng lực thực hành" . Với tư tưởng này Đảng và Nhà nước ta đã đặt con người vào vị trí trung tâm: Con người là mục tiêu và là động lực của sự phát triển. Trong giai đoạn hiện nay đất nước đang trong quá trình hội nhập với quốc tế và khu vực, việc giáo dục nhân cách mới cho học sinh là nhiệm vụ và là mục tiêu cơ bản của sự nghiệp giáo dục đào tạo. Giáo dục nhân cách mới mà thời đại mới yêu cầu là "Giáo dục cho học sinh, sinh viên lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, có bản lĩnh vững vàng, tư duy sáng tạo, có năng lực thực hành, có khả năng thích ứng với nền kinh tế nhiều thành phần". Đặc biệt là, ngày 7/11/2006, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 06-CT/TW về tổ chức 12
  13. 14. Cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh". Sau 5 năm thực hiện cuộc vận động đã tạo ra phong trào phấn đấu tu dưỡng đạo đức trong mọi tầng lớp xã hội, mang lại hiệu quả tốt. Do đó, Bộ Chính trị khóa XI tiếp tục có Chỉ thị số 03-CT/TW, ngày 14 tháng 5 năm 2011 về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Những văn kiện này là tài liệu đặc biệt quan trọng và có giá trị cao đối vớ i giáo dục đạo đức xã hội nói chung, tổ chức quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh nói riêng. Ở thành phố Hồ Chí Minh, ngành giáo dục- đào tạo đã quan tâm và có nhiều văn bản chỉ đạo giáo dục đạo đức truyền thống cho học sinh trong nhà trường và đã tổ chức nhiều chương trình hội thảo, tọa đàm về công tác phòng chống tệ nạn xã hội và ma túy xâm nhập học đường. Như vậy, vấn đề giáo dục đạo đức cho các đối tượng, cho học sinh đã được nhiều công trình nghiên cứu, nhiều tài liệu trình bày. Nhưng vấn đề quản lý hoạt động giáo dục đạo đức còn ít tài liệu, công trình đề cập. Do đó, nghiên cứu về quản lý hoạt động giáo dục đạo đức là vấn đề mới mẻ và cần thiết. Đặc biệt là, ở thành phố Hồ Chí Minh nói chung và ở quận Bình Tân nói riêng, nghiên cứu lý luận và thực tiễn về vấn đề giáo dục cũng như quản lý giáo dục đạo đức học sinh trung học p hổ thông chưa được thực hiện một cách có hệ thống. Vì vậy chúng tôi hy vọng đề tài: "Biện pháp quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông trên địa bàn quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh hiện nay" sẽ góp phần giúp cho các trường trung học phổ thông trên địa bàn quận Bình Tân có thể nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho học sinh. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu 13
  14. 15. Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lí luận và thực tiễn của giáo dục và quản lý giáo dục đạo đức đối với sự hình thành và phát triển nhân cách của học sinh trung học phổ thông, đề tài đề xuất một số biện pháp cơ bản quản lý hoạt động giáo dục đạo đức trong trường trung học phổ thông trên địa bàn quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đáp ứng yêu cầu phát triển mới của đất nước. Nhiệm vụ nghiên cứu Đề tài đã thực hiện các nhiệm vụ sau đây: - Khái quát một số vấn đề lý luận cơ bản về giáo dục đạo đức và quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh trên địa bàn quận Bình Tân; - Nghiên cứu thực trạng về tình hình giáo dục đạo đức và quản lý hoạt động giáo dục đạo đức ở 5 trường trung học phổ thông trên địa bàn quận Bình Tân (An Lạc, Vĩnh Lộc, Nguyễn Hữu Cảnh, Bình Hưng Hoà, Bình Tân); - Đề xuất một s ố biện pháp chủ yếu quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông trên địa bàn quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. 4. Khách thể, đối tượng và phạm vi nghiên cứu Khách thể nghiên cứu: Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức học sinh trung học phổ thông trên địa bàn quận Bình Tân. Đối tượng nghiên cứu: Biện pháp quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông trên địa bàn quận Bình Tân. Phạm vi nghi&# 234;n cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu các biện pháp quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông trên địa bàn quận Bình Tân. Số liệu khảo sát được thực hiện trên đội ngũ cán bộ quản lý, các lực lượng tham gia giáo dục đạo đức, giáo viên và học sinh từ năm 2008 đến nay. 5. Giả thuyết khoa học 14
  15. 16. Việc quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông là nội dung cơ bản của quản lý giáo dục trong nhà trường, ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức trên địa bàn quận Bình Tân còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế xã hội hiện nay. Nếu phát huy được vai trò chỉ đạo, điều hành; tổ chức tốt nâng cao nhận thức về giáo dục đạo đức cho cán bộ giáo viên và học sinh; tạo điều kiện cho giáo viên sử dụng hiệu quả các hình thức, phương pháp giáo dục, đồng thời phát huy vai trò của nhà trường trong phối hợp với các lực lượng giáo dục trên địa bàn thì quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông trên địa bàn quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh sẽ đáp ứng được yêu cầu giáo dục hiện nay. 6. Phương pháp luận và phương ph 5;p nghiên cứu Phương pháp luận nghiên cứu Quá trình thực hiện luận văn, chúng tôi đã dựa trên cơ sở những quan điểm cơ bản của phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác-Lênin; quán triệt những tư tưởng cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm đường lối của Đảng về giáo dục, nhất là các quan điểm trong các văn kiện nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng các khoá IX, X, XI. Sử dụng các phương pháp tiếp cận hệ thống cấu trúc tron g xem xét, phân tích các đối tượng nghiên cứu để giải quyết các nhiệm vụ đề ra. Các phương pháp cụ thể - Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: khái quát các tài liệu lý luận và thực tiễn để xây dựng những quan niệm, khái niệm, xây dựng những quy trình, những nguyên tắc nội dung và phương pháp giáo dục đạo đức và quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông trên địa bàn quận Bình Tân. 15
  16. 18. Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN BÌNH TÂN 1.1. Khái niệm cơ bản về quản lý hoạt động giáo dục đạo đức 1.1.1. Hoạt động giáo dục đạo đức Đạo đức là khái niệm luân thường đạo lý của con người được sử dụng để phân biệt tốt- xấu, đúng - sai, cái thiện - cái ác ... trong cuộc sống, được sử dụng trong ba phạm vi: lương tâm con người, hệ thống ph 3;p tắc đạo đức và sự trừng phạt. Trong đời sống xã hội, nói đến đạo đức là nói đến các giá trị, các chuẩn mực đạo đức. Những quan niệm về các giá trị và chuẩn mực đạo đức có tính lịch sử - xã hội và gắn liền với các tư tưởng về triết học, về văn hóa trong mỗi thời kỳ lịch sử; chịu sự chi phối của các tư tưởng tôn giáo, chủ nghĩa nhân văn, và những luật lệ của một xã hội, phản ánh trong cách đối xử của con người v& #7899;i môi trường xung quanh, với cộng đồng với người khác và với bản thân mình. Theo quan niệm trước đây, đạo đức được hiểu đồng nghĩa với luân lý, đó là những chuẩn mực, hành vi được xã hội quy định, được nhiều người thừa nhận và tự giác thực hiện. Đó là những quy ước cộng đồng xã hội qua thời gian được thừa nhận và trở thành truyền thống đạo lý trong ứng xử giữa người với người, người với tự nhiên, xã hội. Ngày nay, trong hoàn cảnh xã hội luôn vận động, phát triển, quan niệm về đạo đức được mở rộng phạm vi. Đạo đức không chỉ là phạm trù luân lý, những quy định đối nhân xử thế giữa người với người trong mọi phạm vi từ nhỏ đến lớn. Đạo đức còn được mở rộng đến vấn đề ý thức, trách nhiệm giữ gìn, bảo vệ hòa bình, biết hợp tác phát triển cùng với các dân tộc khác, giáo dục trách nhiệm, xã hội lành mạnh, giáo dục việc thực hiện nghĩa v&# 7909; công dân 17
  17. 19. trong sự nghiệp phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, thực hiện các mục tiêu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa và tinh thần cảnh giác cách mạng trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Với ý nghĩ đó, có thể hiểu đạo đức một là một hình thái ý thức xã hội, là tổng hợp những quy tắc, nguyên tắc, chuẩn mực xã hội nhờ đó con người tự giác điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp với tiến bộ xã hội trong quan hệ giữa con người với con người, giữa cá nhân và xã hội. Giáo dục đạo đức là một nội dung quan trọng của quá trình giáo dục theo nghĩa hẹp nhằm hình thành cho con người những quan điểm cơ bản nhất, những nguyên tắc, chuẩn mực quan trọng nhất làm cơ sở để con người có thể lựa chọn, đánh giá đúng đắn các hiện tượng đạo đức xã hội; biết tự đánh giá, tự suy ngẫm về hành vi, cách ứng xử của mình. Vì thế, giáo dục đạo đức là thực hiện hình thành và phát triển nhân cách cho con người tư 17;ng ứng với từng giai đoạn phát triển trong cuộc sống. Giáo sư Hà Thế Ngữ và Đặng Vũ Hoạt viết: "Giáo dục đạo đức là quá trình biến các chuẩn mực đạo đức, từ những đòi hỏi bên ngoài của xã hội đối với cá nhân thành những đòi hỏi bên trong của bản thân, thành niềm tin, nhu cầu, thói quen của người được giáo dục". Đó là quá trình tác động tới học sinh của nhà trường, gia đình và xã hội, nhằm hình thành cho học sinh ý thức, tình cảm, niềm ti n đạo đức và cuối cùng quan trọng nhất là hình thành cho họ thói quen, hành vi đạo đức trong đời sống xã hội. Song giáo dục trong nhà trường giữ vai trò chủ đạo định hướng " Giáo dục đạo đức cho học sinh là bộ phận quan trọng có tính chất nền tảng của giáo dục trong nhà trường xã hội chủ nghĩa" [07, tr. 128]. Giáo dục đạo đức là sự hình thành nhân cách được tổ chức một cách có mục đích, có tổ chức thông qua các hoạt động và các quan hệ giữa nhà Giáo dục với người được giáo dục nhằm giúp người được giáo dục chiếm lĩnh những kinh nghiệm xã hội của loài người. 18
  18. 20. Trong bất kỳ xã hội nào, vấn đề giáo dục đạo đức cho con người theo chuẩn mực giá trị đạo đức của xã hội vẫn giữ vai trò hết sức quan trọng. Giáo dục đạo đức là con đường chủ yếu để hình thành cho con người những quan điểm, những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực đạo đức cơ bản nhất. Cùng với quá trình giáo dục và hoạt động tích cực của mình, con người càng hiểu rõ vai trò to lớn của lương tâm, ý thức, danh dự và các phẩm chất đN 41;o đức của cá nhân đối với bản thân mình trong đời sống cộng đồng, từ đó tham gia có ý thức, có trách nhiệm vào thúc đẩy tiến bộ xã hội Nói đến hoạt động giáo dục đạo đức là nhấn mạnh xem xét giáo dục đạo đức theo cấu trúc hoạt động, tức là phải xem xét động cơ, mục đích, phương tiện cũng như hệ thống các hành động, thao tác tương ứng của hoạt động đó. Mặt khác, quản lý được thực hiện bằng những công việc cụ th ể như xác định mục tiêu; xác định quyết tâm và xây dựng kế hoạch; tổ chức lực lượng, điều kiện và phương tiện bảo đảm cho việc thực hiện kế hoạch; tổ chức thực hiện theo kế hoạch đã đề ra; kiểm tra, đánh giá kết quả đạt được, điều chỉnh việc thực hiện để kết quả đạt được như mong muốn. Đây là những tư tưởng cơ bản để làm rõ khái niệm quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh. 1.1.2. Quản lý hoạt đ&# 7897;ng giáo dục đạo đức Quản lý là sự tác động liên tục, có tổ chức, có định hướng của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý về các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội... thông qua các luật lệ, các chính sách, các quy định theo những nguyên tắc, phương pháp nhằm tạo ra môi trường và điều kiện cho sự vận động của đối tượng theo đúng yêu cầu của chủ thể quản lý, đạt được mục tiêu quản lý đã đề ra. Mọi người trong xã ; hội đều hoạt động trong những tổ chức xã hội, những nhóm và cộng đồng. Trong khi đó, mỗi người là một nhân cách độc 19
  19. 21. đáo, không lặp lại. Vì thế, khi cần hướng đến một mục tiêu chung, mong muốn đạt được kết quả chung thì phải có sự phối hợp thống nhất trong suy nghĩ, trong hành động của tất cả các thành viên trong tổ chức, nhóm hay cộng đồng đó. Đúng như một nhà tư tưởng đã nói: "Một người độc tấu thì tự điều khiển lấy mình, còn một giàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng". Có thể khái quát, quản lý là quá trình tác động có tổ chức, có mục đ& #237;ch của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý bằng các phương tiện quản lý làm cho đối tượng quản lý nỗ lực tự giác thực hiện các hành vi và hoạt động theo ý định của nhà quản lý để đạt được các mục tiêu đã đặt ra trong điều kiện hoàn cảnh cụ thể. Xét về lịch sử thì khoa học Quản lý giáo dục xuất hiện sau khoa học quản lý kinh tế. Hiện nay, quản lý giáo dục là bộ phận quan trọng của hệ thống quản lý xã hội. Bằng nhiều cách ti&# 7871;p cận khác nhau, các nhà khoa học đã đưa ra những cách định nghĩa khác nhau, tương ứng là các quan điểm khác nhau về quản lý giáo dục. Có thể nêu một số quan niệm tiêu biểu: - Theo M.I. Kondacop thì "Quản lý giáo dục là tác động có hệ thống, có kế hoạch, có ý thức và mục đích của chủ thể quản lý ở các cấp khác nhau đến tất cả các khâu của hệ thống nhằm mục đích bảo đảm cho sự hình thành nhân cách cho thế hệ trẻ trên cơ sở nhận thức và vận dụng n hững quy luật chung của xã hội cũng như những quy luật của quá trình giáo dục vào sự phát triển thể lực và tâm lý trẻ em" [29, tr. 17]. Quan niệm này chỉ rõ nơi tác động là tất cả các khâu của hệ thống; xác định rõ cách tác động của chủ thể quản lý là vận dụng nhưng quy luật xã hội và quy luật giáo dục; mô tả rõ mục tiêu hướng tới của tác động quản lý là sự phát triển thể lực và tâm lý trẻ em. Nhưng quan niệm này chưa tính đến sự chi phối của các y ếu tố chính trị xã hội đối với quản lý, do đó quản lý giáo dục không có định hướng chính trị rõ rệt. 20
  20. 23. Trong quản lý giáo dục, chủ thể quản lý tác động đến khách thể quản lý một cách có ý thức nhằm đạt được mục tiêu quản lý đã đề ra và chính sự thực hiện thành công mục tiêu quản lý giáo dục lại bảo đảm cho thực hiện được các mục tiêu giáo dục nói chung của nhà trường. Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức là bộ phận của quản lý giáo dục nói chung trong nhà trường hướng vào mục tiêu cụ thể là giáo dục đạo đức ch o học sinh. Mục tiêu giáo dục cụ thể này trong mối quan hệ với các mục tiêu quá trình giáo dục bộ phận khác như giáo dục phát triển trí tuệ, giáo dục phát triển thể chất, giáo dục ý thức bảo vệ môi trường, giáo dục đạo đức... Trong quản lý hoạt động giáo dục đạo đức, việc xây dựng kế hoạch quản lý là phân tích đánh giá tình hình giáo dục đạo đức đang tiến hành trong nhà trường, thấy được vai trò thực tế của từng lực lượng tham gia hoạt đ ;ộng giáo dục đạo đức thực hiện nhiệm vụ theo chức trách của mình thế nào, mối quan hệ, hợp tác phối hợp của các lực lượng với nhau thực hiện hiệu quả các tác động giáo dục; thấy được những điều kiện phương tiện, tài chính, quỹ thời gian bảo đảm... để từ đó đề ra mục tiêu mới về nhận thức và hành vi đạo đức của học sinh cần phải đạt được; kịp thời có những chủ trương và quyết tâm hành động đạt được mục tiêu; xác định những yêu cầu mới đối với các thành phần và lực lượng; những điều kiện, phương tiện và tương ứng để thực hiện mục tiêu. Về tổ chức thực hiện kế hoạch hoạt động giáo dục đạo đức, nhiệm vụ của quản lý trước hết là, quán triệt rõ mục tiêu giáo dục đạo đức cho các lực lượng giáo dục, cho học sinh, nhằm tạo ra sự thống nhất trong nhận thức; làm cho họ nắm chắc nội dung các biện pháp tiến hành, các điều kiện và thời gian th̘ 1;c hiện, các kết quả phải đạt được qua giáo dục đạo đức cho học sinh. Từ đó bố trí lực lượng, phân công trách nhiệm, giao chỉ tiêu, xác định yêu cầu thực hiện cho từng đối tượng, từng bộ phận theo kế hoạch giáo dục đạo đức cho học sinh đã xác định. 22
  21. 25. nay là một bộ phận do lãnh đạo nhà trường tổ chức điều khiển các lực lượng giáo dục thực hiện chương trình, kế hoạch giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông nhằm đạt được mục tiêu giáo dục đạo đức đã đề ra trong điều kiện kinh tế xã hội quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. 1.1.3. Biện pháp quản lý hoạt động giáo dục đạo đức Biện pháp là cách làm, cách thức tiến hành, cách giải quyết một vấn đề cụ thể, th ực hiện được mục đích đề ra. Từ điển tiếng Việt của Nguyễn Như Ý viết: "Biện pháp là cách làm, cách thức tiến hành giải quyết một vấn đề cụ thể". Biện pháp quản lý là cách làm của chủ thể quản lý sử dụng các công cụ quản lý tác động vào từng khâu, từng yếu tố trong hệ thống quản lý, làm cho hệ thống quản lý vận động, biến đổi tạo ra kết quả đáp ứng mục đích quản lý đã đề ra. Chủ thể quản lý sử dụng các biện pháp & #273;ể theo dõi sát công việc đang diễn ra; kiểm tra chặt chẽ phát hiện kịp thời các sai lệch để uốn nắn; tổ chức tốt việc tự kiểm tra, tự giám sát của các bộ phận để hệ thống thực hiện tốt các chức năng, nhiệm vụ đã xác định. Vậy, có thể khái quát: Biện pháp quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông trên địa bàn quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh là tổng hợp các cách thức quản lý của Ban giám hiệu, các tổ chuyên môn v& #224; cán bộ nhà trường tác động đến quá trình giáo dục đạo đức nhằm làm cho quá trình giáo dục đạo đức cho học sinh thực hiện tốt kế hoạch và đạt mục tiêu giáo dục đạo đưc đã đề ra. Khái quát trên đã chỉ ra rằng, mục đích cơ bản của các biện pháp quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông quận Bình Tân là làm cho cán bộ nhà trường, các thầy cô giáo và học sinh ý thức rõ ý nghĩa, vai trò của giáo dụ c đạo đức, tích cực huy động mọi sức lực và cố gắng; khai thác mọi điều kiện phương tiện hiện có để trang bị nhận thức, hình thành thái độ hành vi đạo đức đúng đắn cho học sinh. Các biện pháp được thể 24
  22. 27. thực hiện nghiêm túc trong quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông trên địa bàn quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh. 1.2.1. Quản lý mục tiêu và kế hoạch giáo dục đạo đức Trong mọi hoạt động của con người, vấn đề xác định đúng và quán triệt sâu sắc mục tiêu trong quá trình thực hiện là điều kiện quyết định cho kết quả hoạt động. Giáo dục đạo đức là hình thành phẩm chất tâm lý cơ bản, có tính chất nền t 843;ng cho đời sống con người thì việc xác định đúng và thực hiện nghiêm túc mục tiêu giáo dục đó đòi hỏi phải có nhận thức đúng, có biện pháp tổ chức thực hiện kiên trì bền bỉ mới thành công. Quản lý mục tiêu giáo dục đạo đức cho học sinh phải bắt đầu từ xây dựng mục tiêu một cách phù hợp. Đó là những phẩm chất cần có và có thể đạt được của học sinh trong môi trường giáo dục nhà trường, phù hợp với đặc điểm học sinh v 24; điều kiện kinh tế - xã hội địa phương. Khi xây dựng mục tiêu giáo dục đạo đức trước hết phải quán triệt sâu sắc các quan điểm của Đảng về nguồn lực con người, về những chủ trương phát triển giáo dục, nhất là những quan điểm về đổi mới toàn diện giáo dục đào tạo đã được đề cập trong Nghị quyết đại hội lần thứ X và XI của Đảng. Trên cơ sở những tư tưởng, quan điểm cơ bản của Đảng, căn cứ quan trọng khác trong xây dựng m ục tiêu giáo dục đạo đức phải là mục tiêu giáo dục quốc gia đã được xác định cho từng cấp học, bậc học, được các cơ quan quản lý giáo dục đào tạo địa phương triển khai. Khi cụ thể hóa mục tiêu giáo dục của mỗi trường cần phải tính đến các điều kiện thực hiện, những đặc điểm kinh tế xã hội địa bàn để phản ánh được nét độc đáo của địa phương, vừa thuận lợi cho tổ chức thực hiện hoạt động giáo dục củ ;a nhà trường. Như vậy, quá trình giáo dục đạo đức cho học sinh vừa phấn đấu đạt được các tiêu chí chung của cả nước, vừa chứa đựng những giá trị riêng, phản ánh điều kiện và đặc điểm riêng của nhà trường. 26
  23. 28. Trên cơ sở xác định và cụ thể hóa mục tiêu giáo dục đạo đức, việc xây dựng kế hoạch thực hiện các hoạt động giáo dục là nhiệm vụ quan trọng tiếp theo của quản lý. Đây là việc xác định những nhiệm vụ, những công việc cụ thể để đạt được mục tiêu. Từng công việc, nhiệm vụ giáo dục phải xác định rõ người chủ trì, lực lượng tham gia, các mốc thời gian hoàn thành, điều kiện, phương tiện bảo đảm cho các hoạt động giáo dục. Trong kế hoạch cần xác định cả những cách thức và tiêu chí đánh giá kết quả giáo dục từng giai đoạn nói chung cũng như đánh giá mức độ hoàn thành từng công việc, nhiệm vụ. 1.2.2. Tổ chức quá trình thực hiện kế hoạch đạt mục tiêu đề ra Thực hiện kế hoạch giáo dục đạo đức là hoạt động giáo dục cơ bản trong mối quan hệ với các hoạt động giáo dục đào tạo chung của nhà trường. Thực tế cho thấy, các thầy cô thường chú trọng trang bị kiến thức, quan tâm nhiều đến kết quả nắm kiến thức, kỹ năng theo chương trình đào tạo nhiều hơn. Trong khi đó, giáo dục phẩm chất, trong đó có giáo dục đạo đức phải hướng vào rèn luyện biến kiến thức, kỹ năng thành thế giới qua, niềm tin, phẩm chất nhân cách ổn định của học sinh thì chưa được chú trọng. Vì thế, vai trò của quản lý hoạt động giáo dục đạo đức là phải làm cho các thầy cô thực sự hiểu "dạy chữ để dạy người", luôn có ý thức và c 3; biện pháp tiếp tục kết quả tiếp thu kiến thức thành phẩm chất đạo đức của học sinh một cách hiệu quả. Cùng với nhận thức đúng yêu cầu giáo dục đạo đức, công tác quản lý phải bố trí lực lượng phù hợp, phân công trách nhiệm rõ ràng; bảo đảm các điều kiện về môi trường tự nhiên và xã hội; bảo đảm các phương tiện, kinh phí để các hoạt động giáo dục diễn ra đúng kế hoạch đã xác định. Cần lưu ý vấn đề môi trường trong giáo dục đạo đức rất quan trọng, tác động ảnh hưởng mạnh mẽ, có khi làm sai lệch kết quả giáo dục. Do đó cần quan tâm đúng mức đến xây dựng và tổ chức môi trường giáo dục. Trước hết, môi trường sư phạm trong nhà trường phải thân thiện với học sinh, luôn 27
  24. 29. hướng học sinh đến các giá trị thẩm mỹ, hình thành ý thức bảo vệ môi trường sống, có tình yêu nhà trường, kính trọng thầy cô sâu sắc. Công tác quản lý còn phải có những biện pháp hiệu quả xây dựng và duy trì mối quan hệ giữa nhà trường với gia đình học sinh, với các tổ chức xã hội trên địa bàn để môi trường mà các em học sinh được tiếp xúc đều có tác động giáo dục đạo đức cho học sinh. 1.2.3. Tổ chức quá trình tự tu dưỡng, rè n luyện đạo đức cho học sinh Học sinh không chỉ là đối tượng của các tác động giáo dục mà còn là chủ thể của quá trình hình thành, rèn luyện các phẩm chất đạo đức. Tổ chức tốt hoạt động tự tu dưỡng, tự rèn luyện của học sinh là đề cao vai trò chủ thể, là biến quá trình giáo dục thành quá trình tự giáo dục. Công việc này không chỉ đòi hỏi các thầy cô giáo phải có những biện pháp sư phạm hiệu quả mà còn đỏi hỏi công tác tổ chức quN 43;n lý phải có cách làm hiệu quả. Để giúp học sinh có ý thức và tích cực tự tu dưỡng rèn luyện đạo đức, công tác quản lý phải làm cho thầy cô thực sự tôn trọng nhân cách học sinh, luôn tạo điều kiện cho học sinh có cơ hội và có đủ điều kiện tự thể hiện mình trước tập thể. Các nội dung giáo dục đạo đức phải được phân tích kỹ càng, thấy rõ những nội dung nhận thức lý luận cần thầy cô chỉ bảo hướng dẫn; những nội dung cần trải qua th& #7921;c hành trong cuộc sống để tổ chức cho học sinh trải nghiệm. Từ đó, xây dựng kế hoạch giáo dục đan xen và luân phiên giữa nâng cao nhận thức với trải nghiệm hành động thực tiễn. Để phát huy có hiệu quả vai trò chủ thể của học sinh trong giáo dục đạo đức, công tác quản lý còn phải đặc biệt chú trọng xây dựng tập thể học sinh. Giáo viên các môn học là lực lượng phối hợp; giáo viên chủ nhiệm là người trực tiếp tổ chức các hoạt động tập thể học sinh . Đặc biệt là, vai trò của Đoàn thanh niên trong nhà trường. Công tác quản lý cần thông qua các 28
  25. 30. tập thể lớp học sinh, thông qua tổ chức các hoạt động đoàn để rèn luyện tính tập thể, lồng ghép các nội dung giáo dục đạo đức vào các hoạt động thập thể một cách hiệu quả. 1.2.4. Tổ chức và quản lý hoạt động kiểm tra, đánh giá và điều chỉnh trong giáo dục đạo đức Kiểm tra và điều chỉnh trong mọi hoạt động giáo dục đều là khâu chủ yếu để phát hiện kịp thời, điều chỉnh một cách hiệu quả mọi sai lệch của quá trình giáo dục đ ;ối với mục tiêu đã đề ra ban đầu. Trong giáo dục đạo đức, công tác kiểm tra đánh giá là một nhiệm vụ khó khăn của công tác quản lý vì, đánh giá thái độ, phẩm chất của một con người là một quá trình lâu dài, thông qua nhiều biểu hiện trong thực tiễn cuộc sống. Không giống như kiểm tra, đánh giá kiến thức của thầy cô, đánh giá kết quả giáo dục đạo đức là đánh giá giá tiếp thông qua những biểu hiện. Do đó không thể dựa vào đánh giá chủ ; quan của cá nhân; không thể căn cứ vào một vài biểu hiện bên ngoài đơn giản và nhất là không được kết luận phiến diện vội vàng. Cần có chiến lược tổ chức chu đáo, có sự phân công theo dõi thường xuyên, đồng thời có sự phân tích xem xét mỗi hiện tượng, kết luận về từng con người một cách thấu đáo. Người được phân công kiểm tra, đánh giá kết quả rèn luyện đạo đức học sinh phải được lựa chọn, huấn luyện về kỹ năng, phương ph 5;p đầy đủ. Mặt khác, cần có biện pháp xây dựng những tiêu chí đánh giá một cách khoa học, bảo đảm tính công bằng, công khai và khách quan. Các kết quả kiểm tra đánh giá kết quả cần phải được xem xét trong điều chỉnh nội dung, phương pháp giáo dục. Đây không chỉ là công việc của thầy cô mà quan trọng là các biện pháp triển khai của công tác quản lý. Thầy cô có thể kịp thời điều chỉnh những tác động cụ thể của từng học sinh, của một nhóm. Nhưng công t ác quản lý phải quan tâm tình hình chung. Trên cơ sở 29
  26. 31. những thông tin thu thập được qua kiểm tra, đánh giá tình hình, công tác quản lý cần phân tích kỹ, phát hiện những dấu hiệu chung, tìm ra nguyên nhân của tình hình để có nhận định khái quát mới có thể có quyết định quản lý phù hợp nhằm điều chỉnh, bổ sung, tăng cường về nội dung, về phương pháp giáo dục đạo đức cho học sinh. * * * Tóm lại, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay của đất nước ta đang đặt ra yêu cầu ngày càng cao về nguồn nh 26;n lực, Đảng và Nhà nước ta coi trọng vấn đề con người, coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Trường học có đóng góp rất lớn trong việc đào tạo nguồn nhân lực. Nội dung của giáo dục đạo đức là góp phần hướng tới sự phát triển con người, phát triển nhân cách của từng học sinh, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Chất lượng giáo dục đạo đ ức có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng giáo dục của các nhà trường đặc biệt là trường trung học phổ thông - nơi đào tạo nguồn nhân lực cơ bản cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Muốn đưa ra được những biện pháp quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông thì trước tiên cần phải làm sáng tỏ, đánh giá một cách đúng đắn thực trạng các biện pháp quản lý hoạt động giáo dục đ 841;o đức trong mối quan hệ phối hợp giữa các lực lượng. Chính vì vậy ở chương 2 của luận văn chúng tôi sẽ tập trung làm rõ thực trạng biện pháp quản lý hoạt động giáo dục đạo đức học sinh trên địa bàn quận Bình Tân . 30
  27. 32. Chương 2 THỰC TRẠNG QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN BÌNH TÂN 2.1. Đặc điểm tình hình kinh tế xã hội và giáo dục tại địa bàn quận Bình Tân 2.1.1. Đặc điểm địa lý quá trình phát triển quận Bình Tân Quận Bình Tân là đô thị mới được thành lập bao gồm 10 phường theo nghị định 130/NĐ-CP ngày 05/11/2003 của Chính Phủ, từ huyện Bình Chánh trước đây. Trong những năm gần đây tốc độ đô thN 83; hoá diễn ra khá nhanh, có phường hầu như không còn đất nông nghiệp. Hiện nay, nhiều mặt kinh tế - xã hội của quận phát triển nhanh theo hướng đô thị. Về vị trí địa lý, quận Bình Tân là vùng mới được đô thị hóa từ khu vực nông nghiệp - nông thôn. Mật độ dân cư bình quân năm 2003 là 5.115 người/km2 , nơi có mật độ dân cư đông nhất là phường An Lạc A(16.680 người/km2 ) và thấp nhất là phường Tân Tạo (1.592 người/km2 ). Dân cư phân bố không đồng đều, chủ yếu tập trung ở các phường có tốc độ đô thị hoá nhanh như: An Lạc A, Bình Hưng Hoà A, Bình Trị Đông. Trên địa bàn quận Bình Tân có nhiều dân tộc khác nhau sinh sống, trong đó chủ yếu là dân tộc Kinh chiếm 91,27% so với tổng số dân, dân tộc Hoa chiếm 8,45%, còn lại là các dân tộc Khơme, Chăm, Tày, Thái, Mường, Nùng, người nước ngoài... . Tôn giáo có Phật giáo, Thiên chúa giáo, Tin Lành, Cao Đài, Hoà Hảo, Hồi Giáo... trong đó Phật giáo chiếm 27,26 % Tình hình an ninh trong trường hN 85;c trên địa bàn các năm qua bảo đảm tốt, không xảy ra các vụ tệ nạn hay mất mát tài sản nào. Tỷ lệ học sinh cấp trung học phổ thông bỏ học dao động từ 1% đến 2.5 %. Số học sinh bỏ học là do chuyển 31
  28. 34. ra ở quận Bình Tân và có chiều hướng ngày càng gia tăng, vì vậy những nhà quản lý giáo dục cần nhận thức sâu sắc về vấn đề này đặc biệt là việc nghiên cứu quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh trên địa bàn quận. Cho đến nay chưa có tác giả nào nghiên cứu tổng kết kinh nghiệm để rút ra những kết luận khoa học về việc nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh trên địa bàn quận. 2.1.2. Tình hình phát triển các trườn g trung học phổ thông trên địa bàn quận Bình Tân Quận Bình Tân là Quận được tách ra từ Huyện Bình Chánh nằm ở khu vực phía Tây Nam Thành phố Hồ Chí Minh. Là quận mới thành lập nhưng tốc độ phát triển về kinh tế xã hội rất nhanh và mạnh. Đầu tư cho giáo dục được đặc biệt ưu tiên: hệ thống trường trung học phổ thông năm học 2003- 2004 và 2004-2005 (mới tách Quận) là 1 trường trung học phổ thông An Lạc và 9 trường trung học phổ thông Tư thục, Dân lập...với cơ sở v 853;t chất tạm được. Năm học 2007-2008 Quận đầu tư xây mới 1 trường: Trung học phổ thông Vĩnh Lộc trong Dự án khu dân cư mới Vĩnh Lộc, trường tuy mới xây nhưng chất lượng chưa thật sự tốt. Năm học 2010-2011 Quận đầu tư xây mới 1 trường: Trung học phổ thông Nguyễn Hữu Cảnh, cơ sở vật chất tốt, rộng rãi, thoáng mát. Tuy còn một số hạn chế như: Mới thành lập, chất lượng học sinh đầu vào tương đối thấp, nhưng sau quá trình đào tạo kết quả đạt được cũ ;ng rất khả quan về học tập như: Tỉ lệ lên lớp và tốt nghiệp trên 95%, tỉ lệ đậu đại học và cao đẳng tương đối cao. Bên cạnh đó số học sinh có hạnh kiểm yếu và trung bình còn nhiều. 33
  29. 35. 2.2. Thực trạng hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông trên địa bàn quận Bình Tân 2.2.1. Nhận thức của cán bộ quản lý và giáo viên và của học sinh Nhận thức của cán bộ quản lý và giáo viên Qua khảo sát cho thấy: Hầu hết cán bộ quản lý và giáo viên nhà trường đều nhận thức được tầm quan trọng của công tác giáo dục đạo đức cho học sinh khi cho ở mức độ rất quan trọng với các nội dung: Giáo dục đạo đức để phát triển gi 25;o dục toàn diện cho học sinh (84.1%); Giáo dục đạo đức nhằm phát triển và hoàn thiện nhân cách cho học sinh (75.0%)...Tuy nhiên, vẫn còn có những cán bộ quản lý và giáo viên hiểu một cách chưa đầy đủ về ý nghĩa của công tác này khi cho một số nội dung là không quan trọng như: Giáo dục đạo đức để học sinh có ý thức bảo vệ môi trường (11.1%); Giáo dục đạo đức để học sinh có ý thức giữ gìn của công (11.1%)... do đó phần nào có ảnh hưởng tới quá trình triển khai, tổ chức hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh của nhà trường. Nhận thức của phụ huynh Qua khảo sát: 100% phụ huynh đồng ý nội dung về giáo dục đạo đức để học sinh trở thành những con ngoan, trò giỏi; 82.4% phụ huynh đồng ý nội dung về giáo dục đạo đức là để phát triển giáo dục toàn diện cho học sinh; 80.9% phụ huynh đồng ý nội dung về giáo dục đạo đức để tạo nên những đức tính và phẩm chất tốt đẹp cho học sinh. Như vậy, phụ huynh đã nhận th&# 7913;c được tầm quan trọng của công tác giáo dục đạo đức cho học sinh. Đây là yếu tố thuận lợi cho trường trong triển khai công tác giáo dục đạo đức học sinh. Nhận thức của học sinh Hầu hết học sinh cho rằng cần và rất cần các phẩm chất mà nội dung giáo dục đạo đức mang lại: Yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội và yêu chuộng hòa bình (100%); Khiêm tốn, thật thà, dũng cảm, lao động cần cù, sáng tạo... (77.2%); Tinh thần đoàn kết và ý thức cộng đồng (72.0%). Đây là y 871;u tố quan 34
  30. 36. trọng để học sinh chủ động, tích cực tham gia vào quá trình giáo dục và rèn luyện đạo đức của nhà trường. Tuy nhiên cũng còn có một số không nhỏ cho là không cần các nội dung giáo dục đạo đức ở trên. Qua đó cho thấy rằng cần phải tuyên truyền hơn nữa để nâng cao nhận thức của học sinh về giáo dục, rèn luyện đạo đức. Qua khảo sát cán bộ quản lý, giáo viên và học sinh thấy ý thức thực hiện nội quy của học sinh còn chưa tốt như: nghỉ học, trốn ti 871;t, lười học bài cũ, gian lận trong kiểm tra vi phạm ở mức cao. Nhiều học sinh vi phạm các điều cấm như: hút thuốc, uống rượu, bia, trộm cắp, đánh bạc, đánh nhau, vi phạm luật giao thông. Nguyên nhân vi phạm nội quy của học sinh Nguyên nhân dẫn tới việc học sinh vi phạm đạo đức là do: Thiếu sự quan tâm của gia đình (90.4%); bản thân học sinh không có sự rèn luyện tốt ( 82.5%); Tác động tiêu cực của bạn bè (77.7% ); Sự ảnh hưởng của khoa học công nghệ: điện thoại, internet, games...(68.2%)... Đây th̘ 1;c sự là vấn đề rất đáng quan tâm của cán bộ quản lý để xem lại các biện pháp giáo dục đạo đức của nhà trường. 2.2.2. Hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh các trường trung học phổ thông trên địa bàn quận Bình Tân Qua khảo sát thấy các biện pháp tác động đến rèn luyện đạo đức học sinh ở mức độ quan trọng và rất quan trọng như: Sự động viên khích lệ của bạn bè (99.2%); Khen thưởng, kỷ luật kịp thời (96.8%); Nội dung giáo dục phù hợp (96. 0%); Sự quan tâm thường xuyên của các thầy cô giáo ( 96.0%); Không bị định kiến của xã hội ( 92.8%); được gia đình hiểu, tạo điều kiện ( 91.2%); và cuối cùng là được tự do trong mọi hoạt động (77.6%). Các nhà quản lý cần xem xét cụ thể các yếu tố tác động ở trên để đưa ra các nội dung, hình thức, biện pháp giáo dục đạo đức cho phù hợp. 35
  31. 37. Về các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý công tác giáo dục đạo đức qua khảo sát thấy: Thiếu sự phối hợp với các tổ chức đoàn thể xã hội ở địa phương (70.5%); Thiếu sự phối hợp giữa nhà trường và gia đình (68.2%); Tác động tiêu cực của môi trường xã hội (54.5%); Phẩm chất, lối sống của thầy, cô, cha mẹ, bạn bè...(54.5%) Tuy nhiên những yếu tố như: Không có chuẩn đánh giá đạo đức học sinh lại có tới 54.5% không đồng ý và 11.4% còn p hân vân; yếu tố: Không khen thưởng, trách phạt kịp thời là 40.9% không đồng ý và 13.6% còn phân vân. 2.2.3. Đánh giá tình hình giáo dục đạo đức cho học sinh Ưu điểm Đa số học sinh các trường trung học có nhận thức đúng đắn về các chuẩn mực đạo đức, trong đó chuẩn mực đạo đức truyền thống giữ vai trò nền tảng; đó là lòng nhân ái, yêu quê hương đất nước, quí trọng tình cảm gia đình, thầy cô, sẵn sàng giúp đỡ người khác, biết kính trê n nhường dưới, có ý thức tuân thủ pháp luật, thực hiện các qui định cộng đồng. Các em đã vươn lên tự khẳng định mình trong học tập và trong cuộc sống, có lối sống lành mạnh, ham học hỏi, có hoài bão, có ước mơ cao đẹp. Nhiều học sinh nỗ lực phấn đấu, không ngừng rèn luyện để nâng cao phẩm chất, nhân cách, năng lực để trở thành người học sinh toàn diện về đức- trí-thể-mĩ. Khuyết điểm Những năm gần đây, công tác giáo dục đạo đức cho h ọc sinh trung học phổ thông vẫn còn nhiều bất cập. Vẫn còn nhiều giáo viên khi lên lớp chủ yếu dạy kiến thức, làm sao truyền thụ hết nội dung kiến thức trong bài học mà ít quan tâm đến việc liên hệ thực tế, quan tâm đến giáo dục rèn luyện kỹ năng cho học sinh, coi nhẹ ý thức tổ chức kỉ luật, thói quen, hành vi của học sinh. Ngay trong đối tượng học sinh có một bộ phận không nhỏ học sinh chơi bời 36
  32. 38. hư hỏng, lười học, vô lễ với thầy cô giáo, vi phạm nội quy nhà trường, tham gia vào các tệ nạn xã hội như cờ bạc, lô đề... Nguyên nhân Một số cán bộ quản lý, cùng một bộ phận, giáo viên trong nhà trường còn chưa nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng và sự cần thiết phải giáo dục đạo đức cho học sinh, cũng như việc phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội trong quản lý hoạt động giáo dục đạo đức, nên chưa tích cực tìm ra các biện p háp hữu hiệu để thực hiện mối quan hệ phối hợp đó. Còn một bộ phận không nhỏ học sinh yếu về đạo đức và yếu kém về cả học lực là do bản thân học sinh chưa tích cực tu dưỡng, rèn luyện. Do vậy các đối tượng học sinh này thường thiếu hụt về tri thức văn hóa, những chuẩn mực đạo đức, những quy tắc quy định của xã hội, nhận thức sai lệch về những tri thức ứng xử với gia đình và xã hội. Các em không tự nhận thức được về nghĩa vụ, trách nhiệm của mình với gia đình và xã hội, sống buông thả, tùy tiện, lí tưởng mờ nhạt không xác định được phương hướng phấn đấu cho bản thân. Ngoài ra còn có nguyên nhân từ đặc điểm tâm lí lứa tuổi, các yếu tố về tâm sinh lý của tuổi học sinh trung học phổ thông: Sôi nổi, bồng bột, nhạy cảm, dễ dao động, dễ mất thăng bằng, dễ bị cám dỗ dẫn đến không điều chỉnh được hành vi của mình, a dua đua đòi học theo cái xấu, tiêu cực rơi vào tình trạng cực đoan. Những vấn đề nêu trên nếu không được nhà trường, gia đình và xã hội phát hiện sớm để kết hợp chặt chẽ giáo dục, định hướng thì việc suy thoái về tư cách đạo đức sẽ là điếu tất yếu xảy ra. 2.3. Thực trạng quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông 2.3.1. Xây dựng kế hoạch giáo dục đạo đức Qua khảo sát lấy ý kiến của cán bộ quản lý và giáo viên nhà trường cho thấy: 81.7% cho rằng đã làm t&# 7889;t việc xác định mục tiêu giáo dục đạo đức, chỉ có 18.2% cho rằng việc xác định mục tiêu giáo dục đạo đức chưa tốt; 84.1% 37
  33. 39. cho rằng việc xây dựng kế hoạch cụ thể của năm học và từng học kỳ được làm tốt, chỉ có 15.9% cho là làm chưa tốt. 2.3.2. Tổ chức, chỉ đạo thực hiện kế hoạch giáo dục đạo đức Khảo sát cán bộ quản lý và giáo viên thấy: Tất cả các nội dung công việc của công tác giáo dục đạo đức đều được tổ chức, chỉ đạo thực hiện nhưng chỉ ở mức trung bình, chưa làm tốt. Việc tuyên truyền công tác giáo dục đạo đức đối với phụ huynh đ ã được nhà trường thực hiện nhưng chủ yếu là từ Ban Giám hiệu (95.7%) và giáo viên chủ nhiệm lớp (85.7%) qua các cuộc họp phụ huynh đầu năm, hết học kỳ và cuối năm chứ không phải từ học sinh hay các phương tiện thông tin đại chúng. Do đó những thông tin về giáo dục đạo đức của nhà trường chỉ mang tính thời vụ, không thường xuyên và liên tục nên hiệu quả không được cao. Quản lý nội dung, hình thức hoạt động giáo dục đạo đức Kết quả khảo sát cho ta thấy: 50% giáo viên và 58.7% học sinh đánh giá hình thức: Giáo dục thông qua các giờ dạy văn hoá trên lớp có mức độ thường xuyên. Còn lại các hình thức khác mức độ thường xuyên rất thấp, chủ yếu thi thoảng mới thực hiện hoặc không thực hiện. Như vậy nhà trường chưa thực sự quan tâm đến việc thực hiện các nội dung, hình thức giáo dục đạo đức cho học sinh. Tuy vậy, học sinh thích và rất thích các nội dung và hình thức giáo dục đạo đức của nhà trường như: Giáo dục thông qua hoạt động tham quan, du lịch, cắm trại có 92.0%; giáo dục thông qua hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể dục thể thao, vui chơi giải trí có 91.6%. Tuy nhiên có những hình thức giáo dục có số ý kiến học sinh không thích tham gia ở mức cao như: Giáo dục thông qua lao động, vệ sinh trường sở, hướng nghiệp (25.3%); giáo dục thông qua hoạt động chính trị xã hội nhân đạo (18.0%); Giáo dục thông qua các buổi tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng (16.4%). Do đó các nhà quản lý cần h̓ 1;t sức lưu ý để đưa ra 38
  34. 40. những hình thức giáo dục phù hợp với sở thích của các em để có kết quả giáo dục cao. Quản lý phương pháp giáo dục đạo đức Qua khảo sát chúng tôi thấy giáo viên nhà trường chưa thường xuyên sử dụng các phương pháp giáo dục đạo đức cho học sinh như: Kích thích tình cảm và hành vi: thi đua, nêu gương, khen thưởng, trách phạt, phê phán hành vi xấu, kỷ luật,... (giáo viên là 75.0%, học sinh là 57.6%); tác động vào nhận thức tình cảm: đàm thoại, tranh luận, kể chuy̓ 9;n, giảng giải, khuyên răn... (giáo viên là 63.6%, học sinh là 42.4%); và phương pháp về tổ chức hoạt động thực tiễn: giao việc, rèn luyện, tập thói quen...(giáo viên là 50.0%, học sinh là là 39.6%). Như vậy việc quản lý thực hiện các phương pháp giáo dục đạo đức cho học sinh của giáo viên nhà trường vẫn chưa được thực hiện tốt. 2.3.3. Kiểm tra đánh giá giáo dục đạo đức Qua khảo sát thấy: Có 63.4% cho rằng việc xây dựng được chuẩn kiểm tra đánh giá là tốt; 54.5% cho rằng nội d ung, đối tượng, thời gian kiểm tra đánh giá cụ thể là tốt và thông báo công khai và xử lý kết quả kiểm tra đánh giá có 46.8% cho là tốt. Không có ý kiến nào cho là không thực hiện. 2.3.4. Thực trạng vai trò của các lực lượng giáo dục đạo đức Ý kiến cho vai trò rất quan trọng của lực lượng giáo dục đạo đức trong nhà trường đó là giáo viên chủ nhiệm (100%), cán bộ quản lý (95.5%), giáo viên bộ môn và Đoàn thanh niên là (91.2%), bạn bè thân (89.1%) và tập thể lớp (88.6 %). Như vậy có thể thấy là vai trò của các thầy cô giáo, cán bộ quản lý và bạn bè, tập thể học sinh là những lực lượng rất quan trọng trong giáo dục đạo đức học sinh. 39
  35. 41. 2.3.5. Thực trạng sự phối hợp của các lực lượng trong công tác giáo dục đạo đức học sinh Qua khảo sát cho thấy: giáo viên chủ nhiệm thường xuyên phối hợp với tập thể lớp (81.8%), cán bộ quản lý với giáo viên chủ nhiệm (50.0%). Còn lại hầu hết đều ở mức độ thỉnh thoảng phối hợp. Như vậy có thể thấy nhà trường chưa có cơ chế phối hợp giáo dục giữa các lực lượng để giáo dục đạo đức cho học sinh. 2.3.6. Đánh giá tình hình quản lý giáo dục đ ạo đức cho học sinh Ưu điểm Ban Giám hiệu đã quan tâm và có nhận thức đúng đắn về vị trí, vai trò của hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh, đã có những biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho học sinh trong giai đoạn hiện nay. Bên cạnh việc nâng cao nhận thức cho cán bộ giáo viên, nhà trường đã tổ chức nhiều hình thức giáo dục đạo đức cho học sinh với nội dung phù hợp thông qua các buổi mít tinh kỉ niệm các ngày lễ lớn, tổ chức giao lưu, thi tìm hiểu, tham quan, giáo dục pháp luật, ý thức công dân, giáo dục kĩ năng sống, phòng chống các tệ nạn xã hội, nêu gương người tốt việc tốt... Thành lập câu lạc bộ tư vấn kỹ năng sống cho học sinh, câu lạc bộ Toán học, câu lạc bộ Văn học, câu lạc bộ thể dục thể thao.... Đã thu hút nhiều học sinh tham gia và thực sự trở thành hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh có hiệu quả. Khuyết điểm Sự phối hợp các lực lượng giáo dục, đặc biệt là n hà trường với gia đình học sinh, các tổ chức và lực lượng ngoài xã hội trong công tác giáo dục đạo đức cho học sinh còn yếu, chưa đồng bộ, thiếu nhất quán, thường chỉ mang nặng tính hành chính, kém hiệu lực. Hơn thế nữa việc kiểm tra đánh giá không được tiến hành thường xuyên, việc khen thưởng, kỉ luật chưa đủ mạnh để động viên khuyến khích mọi lực lượng xã hội cùng tham gia. 40
  36. 42. Nguyên nhân Nhà trường giữ vai trò giáo dục trung tâm, then chốt trong phối hợp ba môi trường giáo dục, nhưng lại chưa phát huy được vai trò chủ động trong việc tập hợp các lực lượng giáo dục ngoài nhà trường, chưa xây dựng được kế hoạch phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường, gia đình và xã hội, nên việc giáo dục đạo đức cho học sinh của nhà trường còn tách rời, đơn phương, thiếu nội dung và biện pháp thống nhất, không hỗ trợ được cho nhà trường trong quá trình giáo dục đạo đức cho học sinh, thậm chí còn làm suy giảm những nội dung giáo dục từ phía nhà trường. Có những học sinh gia đình khá giả, bố mẹ có chức có quyền, có mối quan hệ cấp trên ràng buộc với nhà trường, thì con em họ thường ỷ lại, lười học tập, rèn luyện, tu dưỡng, động cơ học tập kém, nhưng có thể lại được nhà trường hoặc các thầy cô giáo nâng đỡ, bỏ qua những lỗi vi phạm của học sinh, kết quả là học sinh đó ngày càng y& #7871;u kém về học tập và đạo đức. Công tác phối hợp giữa nhà trường và gia đình đơn điệu, mang nặng tính hình thức, chưa chú trọng đến hiệu quả. Ban đại diện hội phụ huynh học sinh của nhà trường có thành lập và có sự liên hệ về mặt tổ chức nhưng suốt năm học mối liên đó chỉ thể hiện ở ba kì họp phụ huynh học sinh: đầu năm, cuối học kì I và cuối năm học. Thông thường nội dung các kì họp chủ yếu thông báo về kết quả xếp loại hạnh ki̓ 5;m, học lực của từng học sinh, thông báo các khoản đóng góp theo quy định. Vì thiếu thông tin thường xuyên nên phụ huynh muốn đóng góp ý kiến gì với nhà trường đều rất khó, chủ yếu đồng tình và thống nhất ý kiến là tất cả nhờ nhà trường, phụ huynh học sinh chấp hành đầy đủ mọi chủ trương, kế hoạch của nhà trường. Cán bộ quản lý xã hội còn tư tưởng coi giáo dục đạo đức là công việc riêng của nhà trường, nhà trường phải chịu mọi tr&# 225;ch nhiệm về giáo dục đạo đức cho học sinh trước gia đình và xã hội, từ đó phó thác trách nhiệm cho nhà 41
Next Post Previous Post