Hình Thành Triết Lý Kinh Doanh
Triết lý kinh doanh là khái niệm quen thuộc trong quản trị chiến lược của các tập đoàn kinh tế, các công ty có quá trình phát triển lâu đời ở các nước phát triển. Triết lý kinh doanh phù hợp với môi trường là "kim chỉ nam" hữu hiệu dẫn dắt suy nghĩ và hành vi của các thành viên của tổ chức, là một công cụ có sức mạnh vô hình thúc đẩy các quá trình hoạt động một cách tích cực và là yếu tố quan trọng giúp các tổ chức, các doanh nghiệp thành công lâu dài ở Việt Nam.
Ở Việt Nam, triết lý kinh doanh đã tiềm ẩn từ lâu trong tư duy và hành động của nhiều nhà kinh doanh có tầm nhìn chiến lược thuộc các thành phần kinh tế, nhưng chưa phổ biến rộng rãi, chưa được hình thành có hệ thống và thể hiện một cách chính thức. Từ khi kinh tế thị trường phát triển, triết lý kinh doanh bắt đầu đi vào cuộc sống của nhiều doanh nghiệp có định hướng kinh doanh lâu dài theo các mức độ khác nhau. Quan điểm cốt lõi trong triết lý kinh doanh do con người quyết địn h, đặc biệt là vai trò của các nhà quản trị cấp cao/và người sáng lập doanh nghiệp. Trong thực tế, nơi nào có triết lý kinh doanh chính thức hoặc không chính thức, trong đó quan điểm cốt lõi phù hợp với xu hướng thời đại thường đạt hiệu quả cao hơn so với những nơi không có triết lý kinh doanh. Ở nước ta, những doanh nghiệp ngoài quốc doanh có điều kiện thuận lợi hơn trong việc hình thành triết lý kinh doanh so với các doanh nghiệp quốc doanh. Những điều kiện này xuất phát từ sự khác nhau của các yếu tố thuộc môi trường kinh doanh, nhất là các yếu tố bên trong tổ chức như: Quyền sở hữu về tài sản hữu hình và vô hình, tính chủ động trong các quyết định quản trị, các quyền lợi lâu dài về vật chất và tinh thần của các thành viên trong tổ chức...
Trước xu hướng cạnh tranh ngày càng khốc liệt trên thị trường nội địa, khu vực và toàn cầu; việc hình thành triết lý kinh doanh trong quản trị chiến lược là nhu cầu bức thiết đối với các loại hình doanh nghiệp của Việt Nam nhằm tạo ra một nguồn lực vô hình có tác dụng tích cực trong việc thúc đẩy tinh thần làm việc của các thành viên trong tổ chức và tạo lợi thế cạnh tranh lâu dài trên thị trường.
Triết lý kinh doanh là những tư tưởng có tính triết học mà chủ thể kinh doanh hình thành để hướng dẫn tư duy và hành động cho toàn thể các thành viên trong tổ chức.
Trong lịch sử phát triển của nhiều công ty, triết lý kinh doanh thể hiện qua nhiều hình thức như: Bài hát của công ty; bản tuyên bố chính thức... Ví dụ: Công ty Sony tuyên bố: " ". Đây chính là những điều mà Akio Morita - được mệnh danh là " , nhà sáng lập công ty Sony đã vạch ra, thể hiện cả mục tiêu dài, chiến lược và biện pháp, được xem là "Tinh thần Sony"
Như vậy, khi hình thành triết lý kinh doanh, các nhà quản trị chiến lược của tổ chức xuất phát từ những lý do cơ bản như: Họ muốn tuyên bố lý do tồn tại của tổ chức, muốn khẳng định đặc trưng nổi bật của tổ chức này so với tổ chức khác về đạo lý kinh doanh và về biện pháp hành động, họ muốn phát triển và thành công lâu dài.
Triết lý kinh doanh tốt có những vai trò cơ bản trong quá trình quản trị chiến lược của doanh nghiệp như:
Mỗi tổ chức có những giá trị văn hóa riêng, bao gồm những yếu tố như: Những giá trị cốt lõi, những chuẩn mực chung, những niềm tin, những giai thoại, các nghi lễ, thói quen... ảnh hưởng đến suy nghĩ và hành vi ứng xử của các thành viên trong quá trình hoạt động. Mỗi yếu tố có những đặc trưng, thể hiện bản sắc văn hóa mà những thành viên nòng cốt ban đầu hay các nhà sáng lập mang vào. Trong quá trình hoạt động, bản sắc văn hóa tổ chức được hoàn thiện dần để thí ;ch nghi với môi trường bên ngoài, thích nghi với cộng đồng và phù hợp với tập thể bên trong tổ chức. Tùy theo môi trường hoạt động ở mỗi khu vực thị trường, bản sắc văn hóa của mỗi tổ chức sẽ thể hiện các tư tưởng truyền thống của xã hội phương Đông (gốc nông nghiệp lúa nước) hay phương Tây (gốc chăn nuôi đại gia súc hay gốc du mục), hoặc đan xen tư tưởng của cả hai xã hội.
Do những đặc thù trong quá trình phát triển, những tư tưởng tồn tại trong xã hội phương Đông hay phương Tây đều có những giá trị văn hóa và các yếu tố phi văn hóa. Trong quá trình giao lưu tự nguyện hay bắt buộc giữa các dân tộc trên thế giới, những tư tưởng có giá trị văn hóa và những tư tưởng phi văn hóa của xã hội phương Đông và phương Tây lan rộng và hiện hữu ở khắp mọi nơi, ảnh hưởng đến suy nghĩ và hành vi của con người. Vì vậy, khi hình thà ;nh triết lý kinh doanh, các nhà quản trị chiến lược và/hoặc người sáng lập doanh nghiệp cần lựa chọn những tư tưởng có giá trị của cả hai nền văn hóa trong xã hội để đề xuất các mục tiêu, phương thức hành động, phù hợp đạo lý và pháp lý ở mỗi quốc gia. Những giá trị cốt lõi ban đầu này chính là nền tảng hình thành và phát triển văn hóa của tổ chức hay văn hóa công ty.
Trong thực tế, nơi nào văn hóa tổ chức dược hình thành và phát triển một cách chủ động thì nơi đó tích tụ được các tinh hoa của văn hóa phương Đông lẫn phương Tây. Những biểu hiện tiêu biểu như: Các nhà quản trị coi trọng tính sáng tạo của con người, quyết đoán, dám chấp nhận rủi ro, đề cao tinh thần hợp tác, cởi mở và trung thực trong các mối quan hệ, đề cao tính hiệu quả, quan tâm lợi ích lâu dài...; vì vậy, bầu không khí trong tổ chức luôn thoải mái, mọ i người làm việc một cách nhiệt tình và muốn gắn bó lâu dài với tổ chức. Ngược lại, những nơi không có triết lý kinh doanh, văn hóa tổ chức thường phát triển tự phát, đồng thời nơi đó tích tụ nhiều yếu tố phi văn hóa của cả xã hội phương Đông lẫn phương Tây, những biểu hiện tiêu biểu như: Nhà quản trị hay chủ doanh nghiệp không coi trọng vai trò của con người, không dám quyết đoán, sợ rủi ro cho cá nhân, tư tưởng hẹp hòi, chỉ quan tâm lợi ích cá nhân tr+ 2;ớc mắt, thiếu trung thực, không quan tâm đến hiệu quả, xâm lấn quyền lợi người khác và thường chiếm hữu những gì của người khác..; vì vậy, bầu không khí trong tổ chức nặng nề, người này có tâm lý đề phòng người kia, mọi người không yên tâm làm việc, đố kỵ lẫn nhau, tung tin đồn nhảm để làm mất uy tín người không cùng phe nhóm... Những doanh nghiệp không có triết lý kinh doanh thường không coi trọng đạo đức kinh doanh, đạo đức nghề nghiệp nên khó phát triển các giá trị văn hóa tổ chức bền vững và doanh nghiệp khó thành công và đạt được hiệu quả lâu dài.
Khi hình thành triết lý kinh doanh, các nhà quản trị tuyên bố rõ các mục tiêu chiến lược, qui tắc đạo đức kinh doanh và các biện pháp quản trị hữu hiệu các nguồn lực để doanh nghiệp tồn tại lâu dài. Triết lý kinh doanh phù hợp với nguyện vọng của các thành viên trong tổ chức, nó sẽ được chấp nhận nhanh chóng và những tư tưởng cốt lõi sẽ ăn sâu vào tiềm thức mỗi người và tồn tại bền vững theo thời gian. Ngay khi có sự thay đổi nhân sự quản trị cấp cao, tư tưởng c ố lõi của triết lý kinh doanh cũng khó thay đổi và các giá trị văn hóa của tổ chức tiếp tục phát triển. Điều này đã được Akio Morita - nhà sáng lập tập đoàn Sony giải thích: " . Trong thực tế, điều này cũng diễn ra ở nhiều công ty khác nhau như Matsushita, Honda, Hitachi... của Nhật và những công ty hàng đầu của Tây Âu, Mỹ. Chẳng hạn, tập đoàn IBM của Mỹ có lịch sử tồn tại hơn 80 năm và trải qua nhiều đời chủ tịch, những triết lý cơ bản do nhà sáng lập là ông Thomas Watson - chO 11; tịch đầu tiên của tập đoàn nêu ra vẫn tiếp tục phát huy tác dụng tồn tại đến ngày nay.
Như vậy, triết lý kinh doanh đúng đắn là nền tảng vững chắc giúp doanh nghiệp hoàn thành nhiệm vụ, đạt được các mục tiêu mong muốn, củng cố và nâng cao các giá trị văn hóa của tổ chức theo thời gian.
Khi nghiên cứu vai trò của triết lý kinh doanh trong quản trị doanh nghiệp, các nhà quản trị của các công ty hàng đầu thế giới khẳng định rằng triết lý kinh doanh còn là một nguồn lực vô hình, tạo ra các niềm tin để thúc đẩy tinh thần các thành viên trong tổ chức tiến hành các công việc một cách nhiệt tình và sáng tạo. Nhà nghiên cứu người Nhật U.Waykaki đã rút ra kết luận: "Nguồn tài sản trong kinh doanh của doanh nghiệp hiểu theo nghĩa rộng, ngoài con người, tiền vốn, vật tư, hàng hóa... còn bao gồm những nguồn tài sản mà mắt thường không nhìn thấy, nhưng có tác dụng cực kỳ to lớn. Nguồn tài sản vô hình đó là phong thái văn hóa tổ chức, mà cốt lõi của phong thái chính là triết lý kinh doanh...
Thực vậy, triết lý kinh doanh đã gắn kết toàn thể các thành viên của tổ chức thành một khối thống nhất, một lực tổng hợp cùng hành động vì mục tiêu lý tưởng của tổ chức. Akio Morit - nhà sáng lập tập đoàn Sony giải thích ý tưởng này như sau: "Do coi trọng triết lý kinh doanh, các công ty của Nhật thường phát triển chậm hơn so với các công ty của Mỹ trong giai đoạn đầu. Nhưng khi triết lý sống của công ty đã thâm nhập vào toàn thể nhân viên, lúc đó công ty có một sức m 7841;nh lớn và mềm dẻo hơn trong kinh doanh...".
Trong thực tế, những doanh nghiệp có triết lý kinh doanh sắc sảo, luôn thích nghi với môi trường hoạt động đều trở thành những công ty hàng đầu thế giới. Họ có khả năng phát triển liên tục nguồn nhân lực, thu hút được nhiều lao động giỏi, tạo ra nhiều cá nhân xuất sắc nên luôn là nơi sáng tạo ra cái mới để phục vụ nhu cầu con người khắp nơi trên thế giới.
TH: T.Giang - SCDRC
Nguồn: Phạm Thi Thu Phương - Quản trị chiến lược trong nền kinh tế toàn cầu - NXB KHKT 2007.